Cha đẻ giấu mặt của Bitcoin, Satoshi Nakamoto cũng được ghi nhận với việc sáng tạo ra công nghệ sổ cái phân tán được gọi là Blockchain, làm nền tảng cho Bitcoin và hầu hết các loại tiền kỹ thuật số khác trên thị trường. Tuy nhiên, Blockchain đầu tiên đã được phát hiện trong tờ New York Times, trước Blockchain của Nakamoto đến 13 năm.
Blockchain trước thời kỳ Bitcoin
Blockchain được định nghĩa là một danh sách ngày càng tăng của các bản ghi vĩnh viễn, được gọi là các khối, có chứa hàm mật mã của khối trước đó, dữ liệu giao dịch và dấu thời gian. Công nghệ này được thiết kế để có thể kiểm chứng vĩnh viễn và không thể thay đổi, tạo ra một hệ thống *trustless cho những thứ như giao dịch tài chính.
Blockchain được nhiều ngành công nghiệp xem như một cách để cải thiện an ninh dữ liệu và minh bạch và giảm chi phí vận hành.
Do tiềm năng lớn mà Blockchain mang lại, công nghệ này hiện đang được xem xét để theo dõi các giao dịch ngoài các khoản thanh toán. Quản lý chuỗi cung ứng hoặc truyền thông thiết bị đến thiết bị trên Internet of Things (IoT) chỉ là hai ví dụ về các trường hợp sử dụng phổ biến đang được xem xét.
Lợi ích lớn nhất của Blockchain cho các doanh nghiệp là xung quanh chuỗi thời gian được ghi lại. Đó là phương pháp dữ liệu timestamping mà các nhà mật mã đầu tiên Stuart Haber và Scott Stornetta phát minh vào năm 1991. Tuy nhiên, Haber và Stornetta vào thời điểm đó đã nhìn nhận công nghệ này như một cách để đánh dấu các tài liệu kỹ thuật số để chứng minh tính xác thực.
Trong thế giới thực, việc định thời gian và xác minh dễ dàng hơn rất nhiều. Có công chứng viên để xác minh tài liệu, và thậm chí một cái gì đó đơn giản như niêm phong một phong bì có khả năng có thể chứng minh một tài liệu đến mà không có bất kỳ thay đổi. Tuy nhiên, đối với các tài liệu kỹ thuật số, việc xác minh dữ liệu của mình khó khăn hơn nhiều.
Hai nhà phát triển đặt ra để giải quyết nhu cầu xác minh tài liệu kỹ thuật số. Họ biết rằng dữ liệu sẽ phải được định thời gian để đảm bảo bất kỳ thay đổi nào đối với một tài liệu trở nên đáng chú ý, và họ hiểu rằng dấu thời gian tương tự là điều cần thiết để đảm bảo không thể thay đổi tính xác thực.
Cùng với nhau, Haber và Stornetta đã sử dụng thuật toán hàm mật mã để tạo ra một ID duy nhất cho mỗi tài liệu. ID sẽ thay đổi mỗi khi tài liệu bị thay đổi. Bộ đôi cuối cùng đã tung ra dịch vụ timestamping của riêng họ gọi là Surety.
Sản phẩm chính của Surety AbsoluteProof đóng vai trò là ví dụ tốt nhất về Blockchain trước thời kỳ Bitcoin. AbsoluteProof được thiết kế để trở thành một con dấu được mã hóa cho các tài liệu kỹ thuật số. Phần mềm này được sử dụng để tạo ra một hàm mật mã của một tài liệu kỹ thuật số mà sau này được gửi đến Surety để tạo ra một dấu thời gian. Con dấu đóng vai trò là ID duy nhất xác minh tính xác thực.
Một bản sao của con dấu sau đó được gửi đến những gì mà Surety gọi là “cơ sở dữ liệu đăng ký toàn cầu” bao gồm các con dấu của khách hàng, tạo ra một sổ cái bất biến của tất cả các con dấu của khách hàng của Surety từng được tạo ra. Thiết kế làm cho bất kỳ ai ngoài Surety không thể thay đổi con dấu.
Blockchain của Bitcoin và AbsoluteProof của Surety khác nhau ở chỗ Blockchain của Bitcoin được phân cấp, thêm một lớp trustless vào công nghệ đầu tiên được phát minh bởi Haber và Stornetta.
Ngoài ra, bằng chứng “tuyệt đối” của quy trình xác minh của Surety, công ty sẽ xuất bản các giá trị hàm mới được thêm vào mỗi tuần cho tờ New York Times trong một quảng cáo nhỏ trong phần được phân loại. Đó là kỷ lục được công bố trên tờ báo nổi tiếng này, có niên đại từ năm 1995, được xem là công nghệ Blockchain đầu tiên, và truyền cảm hứng cho người sáng tạo Bitcoin Satoshi Nakamoto để tạo ra Bitcoin trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008.
Trong tờ báo chính thức của Bitcoin, Nakamoto thực sự đã tham chiếu 3 bài báo riêng biệt được viết bởi Haber và Stornetta trong 8 bài báo được trích dẫn trong văn bản. Rõ ràng Nakamoto đã sử dụng hệ thống AbsoluteProof của Surety làm nguồn cảm hứng cho Blockchain của Bitcoin, hoàn thiện những gì Haber và Stornetta ban đầu được đặt ra để hoàn thành.
*Trustless nguyên gốc nghĩa là không đáng tin cậy – nhưng trong tiếng anh, hậu tố – less thể hiện sự phủ định, theo ý tác giả, nghĩa là “không cần lòng tin”. Bitcoin trên thực tế là một hệ thống không cần lòng tin – vì bạn không cần lòng tin vào đối phương để thực hiện giao dịch
Theo TapchiBitcoin.vn/Newsbtc
Để hiểu thêm về Bitcoin và hệ thống trustless, tham khảo [Series] Cuộc cách mạng Satoshi – Không cần lòng tin
Xem thêm: Bài 2: [Series] Cuộc cách mạng Satoshi – Không cần lòng tin