Bài viết này nghiên cứu về việc sử dụng tiền tệ trong lịch sử và hiện tại, và bằng cách nào Bitcoin và/hoặc các loại cryptocurrency khác có thể “hòa nhập” vào tương lai của tiền tệ. Đây không phải là một bài viết để dự đoán giá cả, và cũng không phải là các lập luận hàm ý về sự đảm bảo về tương lai của cryptocurrency.
“Tiền tệ được tạo ra nhiều lần ở nhiều nơi. Sự phát triển của nó không đòi hỏi bất kỳ sự đột phá về công nghệ nào cả – nó là cuộc cách mạng trên tinh thần thuần túy. Nó bao gồm cả sự tạo thành của một thực tế mới mang tính “liên chủ thể”, nó chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng chung của mọi người.
Tiền không phải là xu và ngân phiếu (banknote). Tiền là bất cứ thứ gì mà mọi người sẵn sàng sử dụng để đại diện cho giá trị của những thứ khác nhằm mục đích trao đổi hàng hoá và dịch vụ.”
– Trích từ cuốn tiểu thuyết Sapiens (2011) của Yuval Noah Harari
Đề xuất giá trị của Bitcoin không phải là loại tiền kỹ thuật số – 90% số tiền hiện có chỉ tồn tại dưới dạng tiền kỹ thuật số; Đề xuất giá trị của Bitcoin là phương pháp luận của nó trong việc bảo đảm tính chất đáng tin cậy của đồng tiền này.
Phần 1: Lịch sử của Tiền tệ
Giả sử, nó bắt đầu với việc săn bắt và hái lượm, chiếm hơn 90% lịch sử nhân loại hiện đại. Trong thời kỳ đó, con người được coi là jack-of-all-trades (có kĩ năng ở nhiều lĩnh vực), học tất cả các kỹ năng cần thiết để sinh tồn. Có thể nói rằng, hình ảnh về hình thức buôn bán giả định sớm nhất mà chúng ta nghĩ đến đó là: một người tối cổ đang cố gắng bắt đầu một cuộc trao đổi bằng cách đem bộ lông thỏ của mình để đổi lấy những gì anh ta thực sự muốn, như là một ít thịt heo. Ngày nay, sự trao đổi đó được gọi là “hệ thống trao đổi”, và nó được chấp nhận như là hình thức giao dịch sớm nhất.
Tôi nói “được chấp nhận” bởi vì nhà nhân loại học David Graeber lập luận rằng “tiền thân” của tiền tệ – được cho là việc “trao đổi” – đã không thực sự tồn tại trước tiền tệ. Nhưng ngay cả khi hệ thống trao đổi có tồn tại, nó sẽ không được thực tế như là một hành động được duy trì hàng ngày như việc trao đổi tiền; sau tất cả, hãy tưởng tượng nó sẽ khó khăn như thế nào nếu không ai muốn bất cứ điều gì bạn đưa ra cho họ – bạn sẽ không tồn tại được lâu. Hoặc nếu món hàng để trao đổi duy nhất của bạn là một con voi ma mút đã chết – lúc đó bạn sẽ làm gì? Kéo lê nó theo bạn để đổi lấy những quả mọng ư?
Bread winning – Công cuộc “Chiến thắng bánh mì”
Vào khoảng cuối thế Pleistocen (hay thế Canh Tân – được xem là kỷ nguyên băng hà gần đây nhất, kết thúc vào khoảng 10.000 năm trước), việc khai hóa lúa mỳ, các loại hạt và động vật xuất hiện khi con người có mặt trên khắp thế giới. Sự khai hóa này dẫn đến sự ra đời của nông nghiệp, việc này đã tập trung hóa và tăng mật độ dân số. Với mật độ dân số tập trung, con người không còn cần phải là những jack-of-all-trades mà lối sống săn bắt và hái lượm đòi hỏi nữa; thay vào đó, các cá nhân bắt đầu tập trung vào sự chuyên môn hóa.
Một số người làm nông dân, số khác làm thợ may, và sớm sau đó, một số đã trở thành kế toán bởi vì một hệ thống trao đổi sẽ không duy trì một nền văn minh của các cá nhân chỉ có một chuyên môn duy nhất. Một nhà buôn quần áo có thể đưa người nông dân một số quần áo để đổi lấy lúa mì, nhưng một nông dân không cần quần áo mới mỗi ngày như một nhà buôn quần áo cần thực phẩm. Để có được thực phẩm thông qua hệ thống trao đổi, một người thợ may sẽ phải thật sáng tạo trong việc trao đổi các hàng hóa trước khi có được miếng bánh mì. Đây sẽ trở thành một trò chơi để chiến thắng được bánh mì. Bread-winning đúng nghĩa luôn!
Những nguyên tắc cổ đại của việc quyết định tiền là gì
Nhu cầu về hệ thống giao dịch được kiểm soát đã mở đường cho sự ra đời của tiền tệ, được sử dụng như một thước đo giá trị (tiền kế toán) và để giao dịch (tiền giao dịch). Nhưng sự xuất hiện của tiền không bắt đầu bằng giấy và xu mà chúng ta đều biết đến và “si mê” ngày nay. Vỏ ốc tiền là một trong những hình thức đầu tiên và phổ biến nhất của tiền, và đã được sử dụng để tiến hành việc trao đổi quanh Châu Phi và Châu Á; trên thực tế, các vỏ ốc này được sử dụng như một loại tiền tệ ở châu Phi (cụ thể là Uganda) cho đến thế kỷ 19 (1801-1900).
Các ngân hàng thời tiền sử đã nổi lên trong các nền văn minh như nền văn minh Lưỡng Hà (Mesopotamia), nơi mọi người có thể gửi các vật có giá trị của mình để giữ an toàn và để trao đổi. Hệ thống mới này đã dẫn đến sự cần thiết trong việc ghi lại lịch sử của tất cả các giao dịch đến và đi, đồng thời cũng dẫn tới việc sử dụng sổ cái đầu tiên để ghi lại lịch sử giao dịch.
Nhưng sự xuất hiện của tiền không phải là nỗ lực phối hợp được khởi xướng thông qua thỏa thuận toàn cầu bắt nguồn từ Mesopotamia. Giống như ngày nay có rất nhiều hình thức khác nhau của tiền tệ, vỏ ốc không phải là đồng tiền chung. Ngũ cốc, vải vóc, và các vật dụng khác cũng được sử dụng làm tiền. Mặc dù chúng khác nhau, những mỗi loại đều có 3 đặc điểm chính chung:
- Tiền tệ phải hữu hình. Những ý tưởng không thể là tiền. Chắc chắn là chúng vẫn có thể kiếm ra tiền, nhưng chúng không thể là tiền được.
- Tiền tệ phải có tính đàn hồi. Hữu hình thôi chưa đủ. Bất kỳ nền văn minh nào giao dịch bằng lá cây có thể bị phá sản bởi một cơn gió mạnh. Còn nữa, thử nhét 50 chiếc lá trong túi của bạn mà xem.
- Cộng đồng phải chấp nhận tiền tệ. Sau cùng, khi không có sự đồng thuận, sự ổn định của tiền tệ bị phá hoại bởi vì các cá nhân không chắc chắn liệu những người mà họ muốn giao dịch có chấp nhận tiền hay không.
Trong khi hai đặc tính đầu tiên có thể dễ dàng được tìm thấy trong các mặt hàng như vỏ ốc, hạt ngũ cốc, và vải vóc, cái thứ ba thì có chút phức tạp hơn. Nếu không có một số loại cơ quan giám sát mà được chấp nhận dựa trên pháp lý, thì sự ổn định của tiền tệ sẽ không thể được đảm bảo. Vào khoảng năm 600 TCN, yếu tố cuối cùng đã được giải quyết khi tiền xu xuất hiện.
Nhiệm vụ cai quản chính của Tiền tệ qua những đồng xu
Có một vấn đề với việc sử dụng các loại hạt – bạn chỉ cần trồng trọt thêm nhiều loại hạt hơn. Tương tự với các loại vỏ, chỉ cần đi đến bãi biển thôi! Vậy làm sao mà một hệ thống tiền tệ có thể được tin cậy nếu mọi người chỉ cần đi ra ngoài và kiếm được nhiều tiền hơn bất cứ lúc nào? Đây là một trong những vấn đề to lớn mà tiền xu đã giải quyết.
Những người sinh sống ở vương quốc Lydia của Hy Lạp cổ đại là nhóm người đầu tiên được biết đến bắt đầu việc sử dụng tiền xu. 500 năm sau, các thành phố lớn hơn như Athens bắt đầu bắt kịp. Khác với các loại vỏ và hạt, người dân không thể chỉ đi ra ngoài và tìm thấy nhiều vàng và bạc để nấu chảy và đúc thành những đồng xu với những con tem phức tạp. Ngay cả trong thế giới ngày nay, đó vẫn là một nhiệm vụ chuyên biệt mặc dù lượng công cụ rất nhiều và đa dạng.
Trên mỗi đồng xu có một con dấu được viết bằng chữ. Những người cai trị in hình khuôn mặt của họ hoặc các biểu tượng quốc gia trên đó để đảm bảo rằng họ và các nền văn minh mà họ cai quản sẽ đảm bảo cho giá trị của đồng tiền; có nghĩa là, miễn là nền văn minh của họ tồn tại, tiền tệ vẫn sẽ được mang một giá trị nào đó. Sự chuyển đổi sang sử dụng tiền xu đã làm cho việc lưu thông được kiểm soát bởi các nhà cai trị và tiền tệ được người dân tin tưởng hơn.
Sự xuất hiện của Tiền giấy
Dù việc phát minh tiền xu đã giải quyết được rất nhiều vấn đề về tiền, tuy nhiên vẫn tồn tại những bất lợi. Thứ nhất, đồng xu được đúc từ những kim loại quý trong đó có vàng. Sự tăng trưởng trong lưu thông và nguồn cung đã bị hạn chế bởi sự sẵn có của các kim loại quý này. Ngoài ra, những đồng xu chiếm nhiều diện tích và còn nặng nữa, khiến cho việc lưu trữ và mang chúng theo người trở nên bất tiện. Sự bất tiện và thiếu nguồn cung đã trở thành một vấn đề ngày càng lớn cho đến khi tiền giấy xuất hiện.
Vào năm 100 trước CN, người Trung Quốc đã phát minh ra loại tiền giấy đầu tiên. Không lâu sau, việc sử dụng đầu tiên đã xuất hiện. Thay vì mang tiền xu theo khắp nơi, mọi người có thể để tài sản có giá trị của họ ở ngân hàng, và ngân hàng sẽ cung cấp một tờ giấy có chữ ký xác nhận giá trị của (các) tài sản mà một người có trong ngân hàng; đây chính là tờ ngân phiếu đầu tiên. Hệ thống này dựa trên sự tin tưởng rằng các tờ ngân phiếu này có thể dùng để trao đổi với những tài sản có giá trị thực sự. Thay vì trao đổi những vật có giá trị hữu hình bất cứ lúc nào, mọi người có thể tiếp tục trao đổi các tờ ngân phiếu này.
Sau cuộc xâm chiếm Trung Hoa của Đế quốc Mông Cổ, Đế quốc này đã tiếp nhận việc sử dụng tiền giấy. Vào thế kỷ 13, Marco Polo đã đưa tiền giấy đến Châu Âu. Đến thế kỷ 17, Châu Âu đã bắt kịp xu hướng này, và các thợ hoàn kim đã tiếp nhận việc sử dụng ngân phiếu như một vật thế chấp, được hỗ trợ bởi vàng của các thợ kim hoàn.
Bởi vì mọi người muốn sử dụng và giữ tiền giấy hơn là trao đổi mọi thứ bằng những thứ có giá trị được hỗ trợ, các ngân hàng Châu Âu bắt đầu phát hành nhiều ngân phiếu hơn, tất cả có thể được sao lưu ngay lập tức, đặt cược vào giả thuyết rằng mọi cá nhân nắm giữ các ngân phiếu sẽ không đến nhà của họ (người làm Ngân hàng) ngày hôm sau để xin vàng. Điều này đã trở thành thực tiễn đầu tiên của việc mở rộng cung tiền của thứ mà chúng ta coi là tiền hiện đại.
Công cuộc “rời bỏ” Vàng
Tiền tệ ngày nay không thể đổi cho vàng hay bạc được nữa. Nhưng đây không phải là vấn đề cho đến những năm 1930. Trước đó, mỗi tờ đô la in ra được hỗ trợ bởi $0.40 vàng. Cũng giống như những người châu Âu tin rằng toàn bộ dân số sẽ không phải rút tiền cùng một tức, Hoa Kỳ đã khoan hồng với nguồn cung sẵn có của vàng để đổi lấy đô la của nước này.
Nhưng đầu những năm 1930 không phải là một khoảng thời gian tài chính tích cực đối với Hoa Kỳ. Cuộc Đại suy thoái đã xảy ra vào năm 1929 với sự sụp đổ của thị trường chứng khoán.
Trong nỗ lực để khôi phục lại nền kinh tế Mỹ, Franklin D. Roosevelt (tổng thống lúc bấy giờ) đã quyết định in tiền để bắt đầu chương trình chi tiêu của mình. Thật không may, với nguồn cung hạn chế của vàng, ông đành bó tay – ông không thể tăng thuế trong thảm kịch kinh tế này, và ông cũng không thể in thêm tiền vì không có đủ vàng. Cuộc Đại suy thoái đã biến các cá nhân thành những người tích trữ vàng với nỗi lo sợ về việc đổ xô tới các ngân hàng có thể làm sụp đổ toàn bộ nền kinh tế (các ngân hàng chỉ có $0.40 vàng cho một đô la, do đó họ không thể trả cho tất cả mọi người được).
Vì vậy trong năm 1933, Tổng thống Roosevelt đã khiến cho quyền sở hữu tư nhân về vàng trở nên bất hợp pháp. Để ngăn chặn việc rút thêm vàng khỏi ngân hàng, ông đã đóng cửa các ngân hàng trong ba ngày. Sau đó ông ra quyết định rằng: sẽ là bất hợp pháp nếu có bất cứ công dân nào có quyền sở hữu tư nhân về vàng – nó đã trở thành một tội ác với một mức án rất nặng – lên đến 10 năm tù. Những công dân được hướng dẫn để nộp lại vàng cho Cục Dự trữ Liên bang, và Cục Dự trữ Liên bang sẽ phát tiền giấy cho họ.
Dù được đưa ra với những hành động độc đoán gây tranh cãi, kế hoạch đã thất bại. Thiệt hại đã ập đến, và năm 1971, Tổng thống Richard Nixon chính thức táchđô la Mỹ ra khỏi bất kỳ sự hỗ trợ vàng nào. Cho đến năm 1977, quyền sở hữu vàng đã được hợp pháp hóa trở lại. Trớ trêu thay, Tổng thống Ford, người đã bãi bỏ Lệnh cấm Vàng của Tổng thống Roosevelt, thậm chí còn không biết rằng việc sở hữu vàng là bất hợp pháp.
Hệ thống Tiền tệ ngày nay
Giờ đây chúng ta đã đạt được sự thực hành về tiền tệ khá là hiện đại. Chúng ta đã thấy được thứ bắt đầu như một hệ thống trao đổi, sau đó đã trở thành một hệ thống tiền tệ dựa trên giá trị với các mặt hàng như hạt, vỏ và vải vóc. Giá trị sau đó được bảo đảm bởi một chính phủ được thành lập thông qua việc đúc tiền xu. Khi tiền xu trở thành một gánh nặng, thì tiền giấy đã xuất hiện và thay thế nó.
Với đa số các giao dịch được xử lý chủ yếu qua tiền giấy, các chính phủ đã trở nên thận trọng hơn đối với tỷ lệ giữa tiền giấy so với các kim loại quý. Không lâu sau, tiền giấy đã trở nên hoàn toàn tách rời khỏi các kim loại quý mà tiền tệ có được giá trị từ đó; thay vào đó, tiền giấy đã trở thành một lời hứa của chính phủ rằng nó thực sự có giá trị nào đó.
Ngày nay, ngay cả tiền giấy được cho là tiền tệ thực sự. Trong cuốn tiểu thuyết Sapiens (2011), nhà nhân chủng học Yuval Noah Harari nhận định rằng:
… Thậm chí tiền xu và ngân phiếu ngày nay cũng là một hình thức tiền tệ hiếm hoi. Tổng số tiền trên thế giới là khoảng 60 nghìn tỷ đô la, thế nhưng tổng số tiền xu và ngân phiếu lại ít hơn 6 nghìn tỷ đô la. Hơn 90% tổng số tiền – hơn 50 nghìn tỷ đô la xuất hiện trong các tài khoản của chúng ta – chỉ tồn tại trên các máy chủ máy tính.
Nói cách khác, 90% (thậm chí còn cao hơn vì số liệu thống kê này được đưa ra năm 2011) tổng số tiền trên thế giới, thực tế chính là tiền kỹ thuật số.
Xem thêm:
- Lịch sử Tiền tệ và Tương lai của Bitcoin với nền kinh tế Cryptocurrency (Phần 2)
- Bitcoin 2029: 10 năm nữa sẽ như thế nào?